HtTp://PDwán.cOmE.vN
Hello
HtTp://PDwán.cOmE.vN
Hello
HtTp://PDwán.cOmE.vN
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

HtTp://PDwán.cOmE.vN


 
Trang ChínhPortalli*GalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Lạm phát

Go down 
2 posters
Tác giảThông điệp
lobachevsky
Admin
Admin
lobachevsky


Nam
Tổng số bài gửi : 178
Age : 34
Myself : Feel free to write
Registration date : 11/01/2008

Post
Post:
Lạm phát Left_bar_bleue0/200Lạm phát Empty_bar_bleue  (0/200)

Lạm phát Empty
Bài gửiTiêu đề: Lạm phát   Lạm phát I_icon_minitimeSat May 03, 2008 12:19 pm

Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả.


Lạm phát 300px-G-5_inflation_50-94_chart


Tỷ lệ lạm phát của 5 thành viên chính của G8 từ 1950 tới 1994.


Lạm phát 300px-Inflation_rate_world


Tỷ lệ lạm phát ở các nước trên thế giới

Đo lường

Lạm phát 1 được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.

Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:

* Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).
* Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
* Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
* Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.
* Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
* Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình.
* Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần của mình ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân".

Các loại lạm phát phân theo mức độ

Thiểu phát

Lạm phát thấp
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến 7.0 phần trăm một năm.

Lạm phát cao (Lạm phát phi mã)
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá hai chữ số một năm, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát.

Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa đơn giản là chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát, đó là: (1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; (3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; và (4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm.lhg
Về Đầu Trang Go down
https://pdwan.1talk.net
lobachevsky
Admin
Admin
lobachevsky


Nam
Tổng số bài gửi : 178
Age : 34
Myself : Feel free to write
Registration date : 11/01/2008

Post
Post:
Lạm phát Left_bar_bleue0/200Lạm phát Empty_bar_bleue  (0/200)

Lạm phát Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Lạm phát   Lạm phát I_icon_minitimeSat May 03, 2008 12:19 pm

Vai trò trong kinh tế

Các hiệu ứng tiêu cực

1.Lạm phát
dự kiến: trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các
thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy
vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội:

* Chi phí mòn
giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi
suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm
phát làm cho người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó
họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế
đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do
sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu
nhiều hơn so với không có lạm phát.
* Chi phí thực đơn: lạm phát
thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí
để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
* Làm thay đổi giá tương đối
một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này
tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp
khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì
giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với
doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa
trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét
trên góc độ vi mô.
* Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế
của các cá nhân trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế
không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập
thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do
lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch
giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
* Lạm phát gây ra sự
nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong tính
toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì
vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.

2.Lạm
phát không dự kiến: đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì
nó phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp
đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm
phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị
thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn
người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao
hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn.

Các nhà kinh tế
có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực của lạm
phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra
là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn
định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội
của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách
độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều
tìm cách chống lại loại lạm phát này.

Chỉ số nghèo khổ

Nguyên nhân

Lạm phát do cầu kéo

Kinh
tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng
lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ
AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến
cho mức giá và sản lượng cùng tăng.

Trong khi đó, chủ nghĩa tiền
tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về
tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có
lạm phát.

Lạm phát do cầu thay đổi

Giả dụ lượng cầu về
một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng
lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất
cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng
mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng
cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là
lạm phát.

Lạm phát do chi phí đẩy

Nếu tiền công danh
nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí
nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản
phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.

Lạm phát do cơ cấu

Ngành
kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động.
Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công
cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận,
ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy
sinh vì điều đó.

Lạm phát do xuất khẩu

Xuất khẩu tăng
dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động
cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm
khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và
tổng cầu mất cân bằng.

Lạm phát do nhập khẩu

Sản phẩm
không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu
tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết
định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán
sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung
bị giá nhập khẩu đội lên.

Lạm phát tiền tệ

Cung tiền
tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho
đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do
ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho
lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.

Lạm phát đẻ ra lạm phát

Khi
nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây
giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu
trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.

Kiềm chế lạm phát

Kiềm
chế lạm phát còn gọi là giảm lạm phát. Có một loạt các phương thức để
kiềm chế lạm phát. Các ngân hàng trung ương như Cục dự trữ liên bang Mỹ
có thể tác động đến lạm phát ở một mức độ đáng kể thông qua việc thiết
lập các lãi suất và thông qua các hoạt động khác (ví dụ: sử dụng các
chính sách tiền tệ). Các lãi suất cao (và sự tăng chậm của cung ứng
tiền tệ) là cách thức truyền thống để các ngân hàng trung ương kiềm chế
lạm phát, sử dụng thất nghiệp và suy giảm sản xuất để hạn chế tăng giá.

Tuy
nhiên, các ngân hàng trung ương xem xét các phương thức kiểm soát lạm
phát rất khác nhau. Ví dụ, một số ngân hàng theo dõi chỉ tiêu lạm phát
một cách cân xứng trong khi các ngân hàng khác chỉ kiểm soát lạm phát
khi nó ở mức cao.

Những người theo chủ nghĩa tiền tệ nhấn mạnh
việc tăng lãi suất bằng cách giảm cung tiền thông qua các chính sách
tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Những người theo học thuyết Keynes nhấn
mạnh việc giảm cầu nói chung, thông thường là thông qua các chính sách
tài chính để giảm nhu cầu. Họ cũng lưu ý đến vai trò của chính sách
tiền tệ, cụ thể là đối với lạm phát của các hàng hóa cơ bản từ các công
trình nghiên cứu của Robert Solow. Các nhà kinh tế học trọng cung chủ
trương kiềm chế lạm phát bằng cách ấn định tỷ giá hối đoái giữa tiền tệ
và một số đơn vị tiền tệ tham chiếu ổn định như vàng, hay bằng cách
giảm thuế suất giới hạn trong chế độ tỷ giá thả nổi để khuyến khích
tích lũy vốn. Tất cả các chính sách này đã được thực hiện trong thực tế
thông qua các tiến trình nghiệp vụ thị trường mở.

Một phương
pháp khác đã thử là chỉ đơn giản thiết lập lương và kiểm soát giá cả
(xem thêm "Các chính sách thu nhập"). Ví dụ, nó đã được thử tại Mỹ
trong những năm đầu thập niên 1970 (dưới thời tổng thống Nixon). Một
trong những vấn đề chính với việc kiểm soát này là nó được sử dụng vào
thời gian mà các biện pháp kích "cầu" được áp dụng, vì thế các giới hạn
phía cung (sự kiểm soát, sản xuất tiềm năng) đã mâu thuẫn với sự tăng
trưởng của "cầu". Nói chung, phần lớn các nhà kinh tế coi việc kiểm
soát giá là phản tác dụng khi nó có xu hướng làm lệch lạc các hoạt động
của nền kinh tế vì nó làm gia tăng thiếu thốn, giảm chất lượng sản phẩm
v.v. Tuy nhiên, cái giá phải trả này có thể là "đáng giá" nếu nó ngăn
chặn được sự đình đốn sản xuất nghiêm trọng, là điều có thể có đắt giá
hơn, hay trong trường hợp để kiểm soát lạm phát trong thời gian chiến
tranh.

Trên thực tế, việc kiểm soát có thể bổ sung cho đình đốn
sản xuất như là một cách để kiềm chế lạm phát: Việc kiểm soát làm cho
đình đốn sản xuất có hiệu quả hơn như là một cách chống lạm phát (làm
giảm sự cần thiết phải tăng thất nghiệp), trong khi sự đình đốn sản
xuất ngăn cản các loại hình lệch lạc mà việc kiểm soát gây ra khi "cầu"
là cao.
Về Đầu Trang Go down
https://pdwan.1talk.net
PH
Moderator
Moderator
PH


Nam
Tổng số bài gửi : 108
Age : 33
Myself : Feel free to write
Registration date : 30/01/2008

Post
Post:
Lạm phát Left_bar_bleue0/200Lạm phát Empty_bar_bleue  (0/200)

Lạm phát Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Lạm phát   Lạm phát I_icon_minitimeWed Aug 27, 2008 9:50 pm

:D cũng hay mà nó hơi .... có lẽ là tại ta ko thix ktế cho lắm 8)
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Lạm phát Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Lạm phát   Lạm phát I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Lạm phát
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
HtTp://PDwán.cOmE.vN :: Góc Học Tập :: Toán học-
Chuyển đến